Chùa Tây An còn được gọi là Tây An cổ tự, là một ngôi chùa Phật giáo và cũng là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng ở An Giang, có giá trị về mặt lịch sử lẫn kiến trúc, tọa lạc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, cách thành phố Châu Đốc khoảng 5 km. Chùa không chỉ là một nơi linh thiêng để người dân và du khách tin tưởng đến lễ bái, mà còn là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng.
Chùa Tây An là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Châu Đốc, An Giang
Chùa Tây An do Doãn Uẩn (tổng đốc An Giang – Hà Tiên) đôn đốc xây dựng từ năm 1847. Chùa được xây dựng dưới chân núi Sam, phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa. Kiến trúc của chùa Tây An được thiết kế theo lối chữ “tam”, mang phong cách nghệ thuật Ấn Độ, kết hợp với kiến trúc chùa cổ của Việt Nam, chùa được công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Xung quanh ngôi chùa còn có nhiều hoa kiểng quý tạo nên phong cảnh yên bình và thơ mộng. Rất nhiều du khách đi du lịch Châu Đốc đã ghé thăm chùa Tây An để cầu bình an cho bản thân và gia đì
Lịch sử
Chùa Tây An còn được gọi là Chùa Tây An Núi Sam, là một ngôi chùa Phật giáo tọa lạc tại ngã ba, dưới chân núi núi Sam (nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang). Ngôi chùa này đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích "kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia" theo quyết định số: 92/VH.QĐ ngày 10 tháng 7 năm 1980; và đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận đây là "ngôi chùa có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc đầu tiên tại Việt Nam".
Năm 1847, Tổng đốc An-Hà (An Giang và Hà Tiên) là Doãn Uẩn (1795-1850) vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên đã cho xây dựng một ngôi chùa bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là Tây An tự với hàm ý trấn yên bời cõi phía Tây [1].
Năm 1861, Hòa thượng Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa) cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm 1958, Hòa thượng Thích Bửu Thọ (1893–1972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Vị sư trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Nguyễn Văn Giác (1788–1875), pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế [2].
Cũng trong khoảng thời gian này (tức vào những năm 1850) ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (1849) đến tu tại chùa, nên chùa càng nổi tiếng.
Các vị sư trụ trì chùa Tây An gồm: Hải Tịnh (thế danh Nguyễn Văn Giác), Hoàng Ân (thế danh Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (thế danh Nguyễn Trang Nghiêm), Thuần Hậu (thế danh Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (thế danh Ngô Văn Hòa), Thích Bửu Thọ (thế danh Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (thế danh Hồ Thạch Hùng), Định Long (thế danh Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (thế danh Trần Văn Cung).[3]
Sách Đại Nam nhất thống chí viết về chùa Tây An như sau:
Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy[4].[5]
Kiến trúc:
Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000 m2. Phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa.
Chùa cất theo lối chữ "tam", có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc Việt. Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như gạch ngói, xi măng. Nơi cổng tam quan là tượng Quan Âm Thị Kính, bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 m.
Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ Phật cao hai tầng. Tầng trên là tượng Phật đứng giữa lầu cao, đặc biệt ở giữa mặt tiền chùa là ngọn tháp được xây theo kiểu Menara Azan của các thánh đường Hồi giáo (Islam) với mái vòm tròn, cao. Đây có lẽ là nét ảnh hưởng từ các kiểu kiến trúc của các làng Chăm Hồi giáo (Islam) mà cụ thể là thánh đườmg Mubarak, Châu Giang ở phía bên kia sông Hậu cách chùa Tây An không xa. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con voi: bạch tượng và hắc tượng.
Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).
Trong chính điện có khoảng 150 [6] pho tượng lớn nhỏ: tượng Phật, Bồ tát, La hán, Bát bộ kim cang, Ngọc hoàng, Huỳnh đế, Thần nông v.v...Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc Việt Nam vào thế kỷ 19. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.
Trùng tên:
Sau khi Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) rời cốc ông đạo Kiến trên cù lao Ông Chưởng (xưa thuộc làng Long Kiến, nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) đến tu ở chùa Tây An nơi chân núi Sam; nhân dân địa phương đã tự nguyện dựng lên nơi đây một ngôi thờ Tam bảo để ghi nhớ công ơn ông. Về sau, người ta cũng gọi ngôi thờ này là Tây An cổ tự nên mới xảy ra việc trùng tên chùa.
Chú thich:
1. Theo Địa chí An Giang (Tập 2, UBND tỉnh An Giang ấn hành, 2007, tr. 243). Ngoài ra, tên "Tây An" còn là đảo tự tên "An Tây" mưu mưu tướng mà nhà vua đã phong tặng cho Doãn Uẩn. Thông tin liên quan: Tương truyền trước khi Tổng đốc Doãn Uẩn lập chùa Tây An vào năm 1847, thì nơi ấy đã có một am thờ bằng tre lá do Tổng đốc Nguyễn Nhật An lập vào năm 1820 dưới triều vua Minh Mạng (theo Cổng thông tin điện tử tỉnh An Giang [1]). Tuy nhiên, Tổng đốc Nguyễn Nhật An là một nhân vật được dân gian phối ghép suy tôn lên. Trong lịch sử nhà Nguyễn không có nhân vật Nguyễn Nhật An giữ chức Tổng đốc năm 1820, vì chỉ xuất hiện chức vụ Tổng đốc ở các tỉnh Nam Kỳ từ sau cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832. Trước đó, vùng Châu Đốc nơi chùa Tây An tọa lạc, thuộc trấn Vĩnh Thanh (năm 1832 được chia thành 2 tỉnh là An Giang và Vĩnh Long) do quan trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại quản hạt vào năm 1820.
2. Phái Lâm Tế: một trong năm dòng phái chánh: Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Tất cả đều phát xuất từ Trung Quốc.
3. Bài "Chùa Tây An" của Yến Phượng trên cổng thông tin điện tử thị xã Châu Đốc, truy cập ngày 19/11/2010.
4. Dẫn lại theo Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng trong. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1995, tr.380.
5. Đại Nam nhất thống chí, quyển 30, tỉnh An Giang, mục Chùa quán, trang 186.
6. Theo Nguyễn Hữu Hiệp, "Tây An Cổ Tự ở Núi Sam" trong Nam Bộ đất và người (Viện Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ hợp tác xuất bản, 2005, tr. 426-427-428).
Một số hình ảnh:
Tây An cổ tự (Chợ Mới) ngày nay.
Vườn tháp chùa Tây An
Tượng trong chánh điện
Mộ Phật Thầy Tây An không đấp nấm, theo lời dặn của ông.
Tượng Hòa thượng Thích Bửu Thọ được tôn thờ trong nhà Tổ.
Bình luận của bạn